Làm đến Ông Giời còn bị mắng

Chẳng bao giờ thèm gặp dân. Dân cũng chẳng biết ông mồm ngang mũi dọc thế nào. Ấy thế mà những khi thống khổ nhất, xấu số nhất, người ta lại gọi tên ông. Lại “Ối Giời ơi” một cách rất thành kính. Hay khi cần thề độc, người ta cũng lại lôi ông ra chứng giám: “Nói có Giời biết đấy. Tôi mà nói sai thì Giời chu đất diệt”.

Kinh chưa!

Nhưng giờ thì dân khiếp lắm đấy. Ông Giời dân cũng chẳng sợ. Dân bực, thì đến cả Ông Giời dân cũng mắng ngay. Mà mắng oan. Ông giời mà cũng bị mắng ư? Nỗi oan uổng của mặt đất cần lao đã leo lên đến tận cửa Giời rồi. Làm gì có chuyện tày đình ấy?

Có đấy!

Ấy là khi người ta nhớ lại những cái Tết xưa. Gọi “Tết xưa” nghe cứ xa lăng lắc như thời cổ tích. Nhưng không. Đó chỉ là thời còn chế độ bao cấp. Nào đã xa xôi gì đâu mà bảo chuyện xưa. Thời gian thì chưa xa, nhưng sự việc thì xem ra đã xa lắm. Xa đến nỗi, nhiều việc hiện kể lại, đến bọn con trẻ cũng khó mà tin được. Họ sẽ lại chép miệng: “Ôi dào, các bố chỉ bịa. Chuyện nhà văn ấy mà!”.

“Tết xưa”chỉ là thời còn chế độ bao cấp. Thời gian thì chưa xa, nhưng sự việc thì xem ra đã xa lắm. Xa đến nỗi, nhiều việc bây giờ kể lại, đến bọn trẻ con cũng khó mà tin được…( NT Trần Đăng Khoa).

“Tết xưa”chỉ là thời còn chế độ bao cấp. thời kì thì chưa xa, nhưng sự việc thì xem ra đã xa lắm. Xa đến nỗi, nhiều việc hiện nay kể lại, đến bọn trẻ con cũng khó mà tin được…( NT Trần Đăng Khoa).

Lại oan cho các nhà văn rồi. Ông bạn tôi bảo: “bây giờ thì đến cả Ông Giời cũng thay đổi, cậu ạ. Đấy, cậu cứ ngẫm mà xem. Ngày xưa rét cắt da cắt thịt. Mặc đến ba bốn cái áo mà vẫn còn lạnh. Sáng Ba mươi Tết, vợ chồng con cái còn kéo nhau ra đầu hè ngồi sưởi nắng. giờ thì cái rét nó biến đi đâu cả. Chẳng thấy lạnh gì. Ngày Tết, mặc bộ com-lê, hay chỉ khoác cái áo mỏng vẫn thường ngày, thậm chí còn thấy nóng nữa. Nhiều anh bây giờ chỉ thèm được rét. Đã Tết vẫn không rét. Mà không rét thì làm sao ra cái Tết. Đến cả Ông Giời hiện giờ cũng đổi tính đổi nết rồi”!

Khổ cho Ông Giời chưa? chân tình, Ông Giời cũng đâu có dám lật lọng. Tết nào chả có mưa xuân bay phiêu diêu như khói cùng cái lạnh heo heo. Nhưng những năm xưa, người ta rét vì đói. Đói nên mới thấy rét. Còn hiện nay, nhờ có mấy năm đổi mới mà trông anh nào cũng béo múp míp, chũm trệ như “Việt Kiều yêu nước” cả. Ông bạn cùng cơ quan tôi bảo: “giờ, bầu đội viên thi đua, hay cá nhân chủ nghĩa tiền tiến xuất sắc, cứ thấy anh nào béo là tớ gạch đấy. Vì trông những anh béo cứ thấy có cái gì không được lương thiện. Trông cứ chút chít như một lũ tham nhũng. Cần phải cho vào lò đang cháy. Gạch!”. Nhưng rồi rút cuộc, ông bạn tôi vẫn chẳng gạch được ai, vì ngay cả ông bạn cũng ụt ịt như địa chủ được mùa. Đàn ông đã khổ vậy, nữ giới còn “Đau đớn” hơn nữa. Đau đớn không phải vì khổ, vì cực, mà chỉ tại... béo quá. phụ nữ cao nhã, cánh liễu yếu đào tơ mà đi lại cứ ù ù như cái cối xay lúa. Nhiều chị, nhiều mợ phải chạy tập thể dục, lại còn đi tiệm thẩm mỹ hút mỡ. Rồi uống bao nhiêu thuốc. Đắp, bó bao của quý, vật lạ lên da thịt mà vẫn chẳng làm sao gày được. Trông ai cũng ụ ị như những con gấu Bắc cực. Thế thì cái rét còn biết len vào đâu. Ngày Tết thấy nực nội là phải. Không rét, lại quay trách Ông Giời làm phản mình!

Nhiều lúc, tôi cứ lẩn mẩn nghĩ: Không biết cái gì đã làm nên Tết nhỉ? Các cụ bảo: “Đói ngày giỗ cha. No ba ngày Tết ”. Khiếp chưa? Đến cả ngày giỗ cha mà vẫn còn đói. Cứ như ý các cụ thì chỉ có ba hôm Tết mới được ăn no. Thế nên những cái Tết xưa thường gắn với chuyện ăn uống. Các cụ còn định nghĩa cái Tết rất cụ thể: Tết là “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ - Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”. thả phanh đăng đối nhé. Đầy đủ cả hai vế: Vật chất và ý thức. Mảng ý thức là câu đối đỏ, cây nêu và tràng pháo. đương nhiên là pháo ngày xưa, pháo chỉ nổ đì đẹt, tỏa thơm mùi thuốc pháo. Thuốc pháo làm bằng hạt xoan tẩm hương liệu Tết. Thơ cụ Tú Xương: Bên ao lẹt đẹt pháo thầy Nhang. Bà Anh Thơ: “Nghe tiếng pháo đẹt đùng xa nổ báo - Ngoài đình kia, làng đang đón giao thừa” . Còn pháo hiện làm bằng thuốc súng, nổ ùng ùng như đại bác, mỗi cái Tết lại “bay” bao lăm mạng người, nên cách đây đến mấy chục năm, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã có lệnh cấm pháo để bảo vệ an toàn tính mệnh cho dân. Còn mảng vật chất là thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng xanh. giờ, thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng, những thứ làm nên Tết bày ê hề trong các quán cơm bụi ở thềm. Vì thế mà quanh năm Tết. Cái Tết lại hóa mất thiêng, không còn là nỗi phấn chấn nữa. Muốn có mâm cỗ Tết, chỉ chạy nhoàng ra phố chừng mươi phút là xong. Ngày xưa, các cụ chuẩn bị Tết kỹ lưỡng lắm. Có bộ xống áo mới nào cũng để dành đến Tết mới mặc. Con lợn nuôi cũng là nuôi để đến Tết thịt. Và như thế, cái Tết đã được rục rịch chuẩn bị trước đến cả hàng năm trời. Ở thành thị thì tích phiếu thịt, phiếu đậu dành cho Tết. Ngày thường ăn uống thế nào xong thôi. Vì thế, dù có lòng rất mến khách, nhưng cứ trông thấy khách là sợ, vì không biết tiếp thế dịch thuật đà nẵng nào cho phải. Tiếp đúng như lòng mình thì có khi cả nhà phải nhịn ăn đến cả mấy tháng phiếu thực phẩm. Nhà văn Đỗ Thị Hiền Hòa còn có một cái truyện thật cảm động. Bà mẹ có khách. Khách là bồ cũ. Mâm cơm cũng chẳng có gì, chỉ tồng tềnh mỗi đĩa trứng rán. Bà mẹ đã đe trước cậu con trai ba tuổi từ dưới bếp. Rồi trong bữa ăn, bà dùng mắt “chỉ huy” cậu quý tử. Nhưng khổ nỗi, thằng bé đói, lại rất thèm trứng. Chỉ có khách quý mới có trứng. Thế là cu cậu quên mất mệnh lệnh của đấng tối cao. Bà mẹ lườm không được, hấm hứ cũng không xong, đành phải xông vào trận. Bà gắp trứng cho khách, rồi giục: “Bác ăn đi. Ăn nhanh lên, kẻo cháu nó hư lắm!” . Nghe mà ứa nước mắt. Người lớn lại tranh ăn với cả trẻ em. Khổ sao mà khổ thế. Nhà văn nổi danh Nguyễn Minh Châu cũng có một cái truyện ngắn khá ấn tượng. Trong truyện, có một chi tiết tôi đọc mà rồi không sao quên được. Đó là việc bà mẹ dạy con cách chấm rau muống luộc làm sao cho thật kỹ thuật. Chao ôi! Việc chấm rau muống mà cũng đòi hỏi phải có kỹ thuật sao? Tưởng kỹ thuật chấm thế nào. Hóa ra cũng đơn giản. Bà yêu cầu con phải chấm đứng ngọn rau muống. Vì chấm đứng ngọn rau thì không tốn nước mắm.

Đọc những tác phẩm chân thực về một thời như thế, cô cháu gái tôi lại đâm nghi hoặc:

- Các bác toàn bịa. Chúng cháu cũng biết nhà văn phải hư cấu. Nhưng hư cấu thế nào cũng phải để cho người ta tin được chứ. Đằng này, các bác cứ nhắm mắt xuôi tay mà nói liều, rồi lại tưởng dương gian không có mắt, trẻ em chưa mọc mắt. Thế nên truyện các bác toàn bịa. Mà bịa quá quắt. Bịa thế thì đến cả trẻ mỏ chúng nó cũng chẳng tin!

Khổ! Tôi còn biết nói sao hiện giờ hả Giời? Thời thế đã thay đổi. Đến cả Ông Giời còn bị mắng oan nữa là các nhà văn!

Nhà thơ TRẦN Đăng Khoa

Nhận xét

Bài đăng phổ biến