Rèn luyện thể lực phòng chống các bệnh không lây nhiễm

căn nguyên hệ trọng trực tiếp đến các nhóm bệnh trên, ngoài những căn nguyên như lề thói hút thuốc lá, lạm dụng đồ uống có cồn, thừa cân và béo phì, tăng áp huyết và tăng cholesterol thì việc giảm vận động thể lực thẳng thớm có vai trò quyết định tới nhóm các bệnh không lây nhiễm đồng thời cũng ảnh hưởng quan yếu tới việc hình thành các căn do gây bệnh.

cho nên, gian các bệnh không lây, đặc biệt là bệnh tim mạch và ung thư, Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo người dân tại quờ quạng các quốc gia trên thế giới cần thực hiện chương trình vận động thẳng với các mức độ vận động có tính thích ứng từ cường độ làng nhàng tới gắng công.

Rèn luyện thể lực phù hợp và đều đặn phòng ngừa bệnh không lây nhiễm.

Rèn luyện thể lực thích hợp và đều đặn đề phòng bệnh không lây nhiễm.

lợi. của luyện tập thể dục thể thao, tăng cường hoạt động thể lực

Việc hoạt động thể lực liền đưa tới những lợi. sau: tăng sự phát triển của cơ tim và hiệu suất làm việc của quả tim; giảm cholesterol máu và tăng thải trừ các chất chuyển hóa trung gian gây nhiễm độc thân; Giảm cân; Giảm nguy cơ hình thành huyết khối - căn do hàng đầu gây tắc mạch; Tăng sự phát triển cơ vân giúp các hệ thống huyết mạch phát triển và lưu thông tuần hoàn tiện lợi; tạo sự sảng khoái về tinh thần và tăng cường sự sinh sản các nội tiết tố có lợi cho sức khỏe.

Để bảo đảm hiệu quả và an toàn khi tập luyện

Điều trước nhất là mỗi người phải nắm được tình trạng sức khỏe của chính bản thân mình trước khi dự tập tành. Đừng ngại ngần nếu chúng ta phải đi khám để biết chắc việc tập dượt sẽ an toàn cho chính bản thân mình, thỉnh thoảng sự chủ quan đưa tới những căn nguyên gây ra tình trạng luyện tập quá sức hoặc thậm chí những biến chứng hiểm cho thân thể.

Một số dấu hiệu cần được thầy thuốc tham mưu trước khi tập tành là: thỉnh thoảng có cơn đau ngực, tình trạng thở dốc mệt mỏi khi đi bộ nhanh, chạy nhẹ hoặc lên xuống cầu thang, thỉnh thoảng thấy chóng mặt, hoa mắt hoặc tối sầm không nhìn thấy gì, đau mỏi khớp, sưng nề khớp khi vận động

Dựa vào tình trạng sức khỏe hiện tại mà chọn một phương thức luyện tập hợp. Cần duy trì một khoảng thời kì tập dượt tạo ra sự thích ứng và cải thiện tình trạng sức khỏe của cơ thể. Khoảng thời kì vận động này được chia đều ra các ngày trong tuần tùy theo cường độ vận động. Theo WHO, tổng thời gian trong 01 tuần trung bình là 150 phút với cường độ vận động nhàng nhàng hoặc 75 phút với các bài tập gắng công cường độ lớn.

Bên cạnh đó, để an toàn trong khi tập luyện, người tập cần nắm được chỉ số nhịp tim tối đa và cường độ vận động hiệp với độ tuổi của mình. Chỉ số theo dõi nhịp tim khi vận động đặc biệt quan trọng đối với người nếu trước đó đã có khuyến cáo thận trọng khi tập luyện vì lý do tim mạch, không để dẫn tới tình trạng tập tành quá sức cấp tính gây ra những biến chứng, hậu quả khó lường.

Nhịp tim thường được theo dõi qua việc đếm mạch, đây là một kỹ năng căn bản, có thể đếm mạch tại vị trí động mạch quay ở cổ tay, động mạch cảnh ở cổ hoặc đơn giản nhất là dùng đồng hồ đếm nhịp tim đeo trên người - một trang thiết bị tương đối phổ thông bây chừ. Khi luyện tập, chúng ta có thể tự thẩm tra bằng cách theo dõi nhịp tim.

Khi tham dự luyện tập, mỗi người cần có một chế độ tập ăn nhập với bản thân mình, không phụ thuộc vào việc người bên cạnh mình tập nhiều hay ít, khó hay dễ mà phải là chính bản thân mình có khả năng luyện tập tới đâu.

Mỗi người cũng có thể tự chọn cho mình một khung giờ ăn nhập, miễn là thời gian đó thích hợp với thói quen sinh hoạt và bản thân có thể duy trì được ngay.

Các trường hợp sau cần tham mưu quan điểm thầy thuốc trước khi đấu tập dượt

Khó thở khi tập tành thường nhật, thở dốc, thở ngắn, dập dồn. Vô tình bị nhiễm các triệu chứng, các bệnh cảm cúm. Cảm thấy nhịp im tăng bất thường, sau dịch thuật công chứng gia lai nghỉ khoảng 15 phút vẫn thấy nhịp tim trên 120 nhịp/phút. Thấy đau ở bất cứ bộ phận nào trên cơ thể, hoặc nếu đau mỏi cơ bắp sau 24 giờ nghỉ vẫn thấy không thuyên giảm.

Dừng luyện tập và thăm khám chuyên khoa nếu thấy có các dấu hiệu sau

Đau vùng trước ngực. Hoa mắt chóng mặt ngay hoặc kéo dài bất thường. Đau đầu dữc dội, rối loạn thị giác. Khó thở, phải gắng sức để thở, nghỉ ngơi không đỡ; Hạ thân nhiệt, vã mồ hôi thất thường, lạnh, run chân tay.

Dấu hiệu khởi phát một số bệnh mạn tính đã có từ trước: ví dụ hen phế quản, cơ đạu dạ dày...

Ngay khi mọi việc tập tành diễn ra thuật lợi, chúng ta cũng cần định kỳ thẩm tra sức khỏe, đánh giá lại hết thảy sự thich nghi của bản thân và tình trạng sức khỏe trong mỗi thời đoạn để điều chỉnh thói quen sinh hoạt, tập tành và phát hiện những nguyên tố nguy cơ gây bệnh khác.

ThS.BS. Nguyễn Văn Phú

Nhận xét

Bài đăng phổ biến