Bệnh cơ tim giãn: Phát hiện sớm, nhiều cơ hội chữa trị

Bệnh có tỷ lệ mắc khoảng 6-8/100.000 người. Đây là một loại bệnh nặng, có tiên đoán xấu, tỷ lệ tử vong khá cao. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tỷ lệ tử vong của các bệnh nhân này sau 5 năm là 35%, và lên đến 70% sau 10 năm theo dõi.

Hậu quả của bệnh cơ tim giãn

Bệnh cơ tim (cardiomyopathy) được Wallace Brigden dịch thuật bình dương biểu hiện từ năm 1957 để chỉ các bệnh cơ tim không do thiếu máu cục bộ cơ tim. Đến năm 1980, WHO đã dùng thuật ngữ này để chỉ các bệnh cơ tim không rõ nguyên do. Bệnh cơ tim bao gồm bệnh cơ tim giãn, bệnh cơ tim phì đại và bệnh cơ tim hạn chế.

Bệnh cơ tim giãn (dilated cardiomyopathy) là một bệnh lý của cơ tim không rõ nguyên do, gặp ở hồ hết các nước trên thế giới. Lứa tuổi thường gặp nhất là luống tuổi và thanh niên. hầu hết các bệnh nhân có độ tuổi từ 20-50. Tuy nhiên, trong một số trường hợp bệnh xuất hiện ở trẻ nít và người lớn tuổi. Bệnh gặp nhiều hơn ở nam giới với tỷ lệ nam/nữ là 3/1. Các bệnh nhân thường tử vong do cơ tim giãn ra và giảm dần chức năng tâm thu và tâm trương dẫn đến suy tim ứ huyết nặng. Tuy nhiên, khoảng 50% bị đột tử do rối loạn nhịp tim. Những nữ giới bị bệnh cơ tim sau đẻ (bệnh cơ tim chu sản) thì thường có tiên đoán tốt hơn, có thể hồi phục chức năng tim hoàn toàn sau vài năm. tiên đoán phụ thuộc vào việc phát hiện và điều trị bệnh sớm. giờ ghép tim là một giải pháp khá hiệu quả đối với những bệnh nhân bị bệnh cơ tim giãn có suy tim nặng không đáp ứng với điều trị nội khoa.

Hình ảnh cơ tim giãn trên siêu âm.

Hình ảnh cơ tim giãn trên siêu thanh.

Phát hiện bệnh sớm sẽ mang lại hy vọng cho người bệnh

Các tổn thương cơ tim này do nhiều căn nguyên không rõ ràng như nguyên tố gia đình, yếu tố miễn nhiễm hay do virut. Những đổi thay về cấu trúc của cơ tim đã đưa đến những rối loạn huyết động như suy giảm nặng nề chức năng tâm thu và giãn tâm thất. Giảm cung lượng tim và thể tích nhát bóp. Giảm khả năng đáp ứng với gắng sức. Hở van hai lá và ba lá do giãn các buồng tâm thất.

Trong thời đoạn đầu, việc giảm thể tích nhát bóp có thể được bù bằng cơ chế tăng nhịp tim để bảo đảm cung lượng. Tuy nhiên cung lượng tim không tăng khi gắng sức và gây ra triệu chứng khó thở. Có thể trong một thời gian dài các tâm thất bị giãn ra nhưng bệnh nhân không cảm thấy khó chịu gì. Đến giai đoạn sau cả cung lượng tim và thể tích nhát bóp đều giảm. Thể tích tâm thu và tâm trương của tâm thất tăng lên, giảm độ bão hòa ôxy máu tĩnh mạch và kết quả là làm tăng chênh lệch về ôxy giữa máu động mạch và máu tĩnh mạch. Tăng áp lực động mạch phổi và sức cản động mạch phổi từ từ do suy tim trái; giảm cung cấp máu thận, tăng tiết catecholamin và kích thích hệ thống renin-angiotensin-aldosterone do cung lượng tim thấp, do đó làm tăng sức cản ngoại biên lại càng làm cho cung lượng tim bị giảm đi nhiều hơn.

Các bệnh nhân bị bệnh cơ tim giãn thường có triệu chứng như khó thở, ho khan, đau ngực, phù chân, tiểu ít... các bệnh nhân thường có triệu chứng suy tim nặng tuổi 3-4. Tuy nhiên khoảng 10% các trường hợp phát hiện ra bệnh là do ngẫu nhiên chụp Xquang tim phổi thấy bóng tim to hơn thông thường. Khám bệnh nhân thấy có các triệu chứng ứ trệ tuần hoàn ngoại biên như gan to, tĩnh mạch cổ nổi, phù chân hay toàn thân. Các triệu chứng suy tim trái như có ran ẩm ở phổi, áp huyết hạ...

Điều trị bệnh cơ tim giãn cũng rưa rứa như các bệnh nhân bị suy tim do duyên cớ khác. Cụ thể là ăn nhạt, dùng thuốc trợ tim, thuốc lợi tiểu, thuốc giãn mạch, các thuốc chống đông máu để ngừa biến chứng tắc mạch. Các nghiên cứu gần đây cho thấy một số phương tiện có hiệu quả trong điều trị bệnh cơ tim giãn như máy tạo nhịp phá rung tự động có thể cấy được vào trong thân thể, tạo nhịp ba buồng tim...

Phòng bệnh cơ tim giãn cũng như nhiều bệnh lý tim mạch khác là cần phải có một chế độ làm việc, dinh dưỡng và luyện tập thể dục thể thao hợp lý. Điều quan trọng là luôn kiểm soát được trọng lượng thân thể, rà huyết áp, mỡ máu, đường máu và có một tinh thần thoải mái, tránh bị stress.

TS. Quang Anh

Nhận xét

Bài đăng phổ biến